Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

MỤC ĐÍCH


 Có khi đạt được mục đích cũng có nghĩa là không còn mục đích nên cảm thấy bơ vơ. Đó phải chăng do chính ý nghĩa mục đích làm con người bơ vơ khi đã đạt được nó?
Mục đích là một khái niệm được hiện hữu và được chính bản thân người nào đó sử dụng sự hiện hữu đó. Vì thực ra không có mục đích nào là thực hữu. Tùy theo quan niệm, cách nhìn… mà hiện hữu mục đích một cách khác nhau. Vậy mục đích như thế nào mới được xem là chính đáng?
Mục đích có khi chỉ giống như một giấc mơ. Nó hiện hữu trong tâm trí bằng những ý niệm về những hành động cụ thể nào đó. Bằng mọi cách từ trong sâu thẳm của ý niệm, mục đích khiến con người ta biết làm gì và làm như thế nào để đạt được đỉnh cao của chính nó. Lắm lúc, mục đích khiến ta quên đi cái Ngã đau đớn của tự thân, cũng có nghĩa là không còn nhớ đến cái tổn thương trầm trọng của tha nhân. Và ở đây, mục đích này đồng nghĩa với cái Ta ích kỷ, cái Ta không đáng được tôn trọng!
Đối với những trường hợp khác nhau, “Mục đích” được xem như tấm phao nhỏ để bám víu, để phấn đấu vươn lên bằng nỗ lực của chính mình. Mục đích được ví như chất keo để kết dính một chiếc lá vàng khô lên bức tường trắng trống rỗng tạo nên giá trị sự hiện hữu của cả hai, chúng toát lên vẻ đẹp tự nhiên hiếm có. Trong cuộc sống của đời thường, con người sống không có mục đích thường được ví như con thuyền nhỏ lênh đênh trên biển cả mênh mông không bến bờ, không phương hướng, cứ để cho sóng nước dập dìu trôi dạt muôn phương và hậu quả cuối cùng chính là để tan biến giữa đại dương một cách vô nghĩa. Vậy nên, con người cần xây dựng cho mình mục đích, ít nhất là để có gì đó để làm, có ý nghĩa để sống và yêu thương…
 Thật ra không ai tồn tại mà không bận tâm về một khái niệm giá trị gì đó cho riêng mình. Đức Phật đã dạy rằng tùy theo nghiệp cảm của mỗi người riêng biệt khác nhau mà tâm thức của mỗi người cũng chiêu cảm từng cảnh giới riêng không ai giống ai được... Cũng vậy, người nào đã gieo trồng hạt giống thiện thì tự trong ý thức ấy bùng ra ý niệm mục đích tốt và ngược lại, hạt giống bất thiện được ôm ấp từ muôn đời trong ý thức con người thì làm sao hiện hữu được ý niệm mục đích chính đáng lâu dài. Có câu nói rằng: “Tâm bất an nên tam giới bất an” là thế! Thật vậy, an hay bất an, hạnh phúc hay đau khổ tùy thuộc nơi cái nhìn và ý niệm mục đích của mỗi người. Suy cho cùng, mục đích chỉ là một con đường nhỏ nằm im trợ duyên cho người nhanh chóng tìm đến nơi mình cần để nghỉ ngơi và tịnh dưỡng bản thân mà thôi.
Đừng bao giờ lầm tưởng mục đích là cứu cánh và cũng đừng suy tưởng không có mục đích rồi con người sẽ lạc lỏng, bơ vơ. Vì những ai cho rằng mục đích là cứu cánh thì lẽ tất nhiên họ lao tâm, lao lực cho cuộc chạy đua thực hiện cho bằng được mục đích ấy mới thôi. Chính vì vậy, họ đã đánh mất đi những giá trị hạnh phúc khác đang hiện hữu khắp nơi để rồi cái giá cuối cùng họ nhặt được chính là sự bội bạc của thời gian. Thời gian đã lấy đi tuổi thanh xuân, nhiệt huyết, tình người và cả sức khỏe. Họ chỉ còn cảm giác mệt lả và không thể nhấc được đôi chân của mình ngay trong căn nhà rộng lớn, cao sang của chính họ.
Có bao giờ bạn cảm thấy lạc lỏng, bơ vơ trước những cuộc vui mà mình đã chuẩn bị rất kỹ không? Có bao giờ bạn cố tình đi đến những nơi mà bạn đam mê và cuối cùng khi đến đó bạn nhận ra rằng chẳng có gì làm bạn vui không? Có bao giờ bạn đứng trước một sự kiện hoành tráng và xung quanh bạn là hàng vạn người đang reo vui và ngưỡng mộ, nhưng bạn thì không! Còn rất nhiều điều khác nữa nhưng ở đây bạn chỉ cần nhận ra mình đang ở đâu trong những tình huống trên. Nếu bạn chưa từng thì đến một lúc nào đó bạn sẽ phải đối diện. Hoặc giả bạn đã từng thì hãy tự nói với chính mình rằng “Ai rồi cũng như mình cả!”. Vì sao? Vì đó chính là bản chất của cuộc sống.
 Bản chất cuộc sống không phải là một cái gì đó hiện hữu một nơi nào đó và bạn phải đi tìm thì mới có giá trị. Cũng vậy, những tình huống trên khi bạn đặt chân đến mục đích thì mục đích đang ở nơi đâu? Tại sao bạn thấy mình bơ vơ, hụt hẫng khi bạn đã và đang đứng trên đầu mục đích? Tâm trí người trong cuộc và trong cả bản chất hiện tượng, sự việc được diễn ra mang tính truy cầu và lòng tham muốn. Nếu cảnh diễn ra không hài lòng, bạn chắc chắn sẽ băn khoăn và hỏi rằng “Tại sao?”. Nếu như ý, bạn toại nguyện và rồi cũng chỉ có thế! Nhưng có thêm một sự thay đổi đang lớn dần trong bạn đó là lòng hãnh diện và sự kiêu mạn. Điều đó đã không dừng lại và không bao giờ dừng lại. Trừ khi buổi xế chiều nào đó, bạn nhận ra sự sống của mình đang lịm dần và tất cả mục đích đạt được đã đi vào dĩ vãng. Bạn lại bơ vơ ngay chính trong ý niệm của mình rằng bạn sẽ mang theo gì được khi sang thế giới bên kia? Rằng bạn có bỏ lại tất cả nơi này với sự bằng lòng hay không? Bạn sẽ bơ vơ hơn tôi nói.
  Một sự kiện hoành tráng được diễn ra. Bao người reo vui, khấn nguyện. Sự hào nhoáng của ánh đèn, kiêu sa của pháo hoa, rầm rộ của xã hội… Niềm vui reo lên thành tiếng oa oa… rồi sau đó tất cả lại trở về với hiện tượng ban đầu. Đèn tắt. Người về. Pháo hoa chỉ còn trong tâm tưởng. Để làm gì mà phải phấn khích? Cuộc sống này cũng vậy! Vinh – nhục ngang tầm nhau. Vinh không khiến ta ngẩng cao đầu rồi giẫm đạp kẻ yếu. Nhục không làm ta khuất phục và nhụt chí anh hùng. Vinh – nhục như bóng đổ chiều hôm, như hoa nắng lung linh hư ảo. Cảnh nào rồi cũng cho ta bài học lớn khôn. Có người khi tận hưởng vẻ đẹp hào nhoáng của pháo hoa rồi trong đầu hay trong mỗi câu nói đều ca ngợi không ngớt về sự kiện đã diễn ra. Họ ôm ấp những ngày còn lại và hy vọng mình sẽ là người gì đó trong những sự kiện lớn trên. Để làm gì? Chẳng biết nữa! Chỉ biết rằng họ đã không thấy được vẻ đẹp huyền diệu thanh bình của đêm không đèn không điện. Họ đã quên đi tiếng kêu vang vang của dế và ánh sáng nhàn nhạt của trăng, của những vùng đất hoang vu và thơm lừng cỏ dại. Nói vậy để biết không đâu là xấu! Không đâu là đẹp! Có khi cái đẹp đơn sơ dễ gặp ấy lại lớn khôn cùng ta hàng ngày, lại vui cùng ta mỗi đêm. Chỉ mong cái đẹp trong tâm đừng tắt. Cái nhìn nơi đâu cũng đẹp và mục đích cũng chỉ có thế!
Vậy nên hãy sống sao cho tất cả việc làm đều trở thành mục đích có ý nghĩa cao đẹp cho cuộc đời này. Chỉ vậy thôi! Bạn ạ!

KHÁNH THUẦN

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

ĐA DỤC VI KHỔ




Cuộc sống là một chuỗi ngày đi qua với đầy đủ cung bậc cảm xúc trong một con người. Những nốt nhạc của tham lam, thù hận, si mê đã làm nên một lịch sử nhân loại đầy tang thương. Những nghiệt ngã oan khiên của cuộc đời đã lần lượt diễn ra như những thước phim chiếu chậm, bao tâm hồn yếu đuối đã chết lần chết mòn dưới cơn nắng hạ của lòng tham vô hạn. Tiếng hống sư tử từ ngàn năm vẫn còn vang vọng “Biển có thể cạn, núi có thể mòn, quả đất có thể băng hoại nhưng khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh và ái dục” (Tương Ưng III, chương 1, phẩm 5, tr. 267). Càng nhiều tham muốn, con người lại càng xây dựng nên ngọn núi đau khổ thật lớn. Thậm chí mãi đến giờ, người ta vẫn “hì hục” vun đắp thêm mà không cảm thấy mệt mỏi. Một câu hỏi mà cả ngàn mấy năm qua, nhân loại dù biết câu trả lời nhưng vẫn không thực hiện được.
 Vẫn biết rằng, cuộc sống cần phải có những cái “muốn” để làm mục tiêu hướng tới mà vươn lên. Thế nhưng, người đời đã đẩy mức độ “muốn” lên tới mức chìm đắm, mê muội nên đã tạo ra nhiều tội lỗi chịu nhiều khổ đau. Căn bệnh trầm kha của con người là dù đạt được cái này rồi nhưng lại muốn có thêm cái khác, cứ như thế mà “cái muốn” ấy không bao giờ dừng lại, chúng sanh chìm vào vòng xoáy tham cầu liên miên, bất tận để rồi tạo ra vô vàn khổ đau cho mình và cho người. Có những lúc ngôn ngữ cũng trở nên bất lực để làm phương tiện phơi bày tội ác mà con người gây ra: tội ác với thiên nhiên, tội ác với cỏ cây, tội ác với các loài động vật và cả tội ác với nhân loại. Trong khoảnh khắc nào đó nghĩ suy về cuộc đời, ta phải rùng mình hoảng sợ vì không ngờ rằng đó lại chính là những tội lỗi được làm nên bởi con người – loài động vật bậc cao có ý thức?! Ta tự hào cho một nền văn minh nhân loại với công nghệ khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến nhưng ta vẫn phải đang tha thiết kêu gọi vì một giá trị đạo đức của con người. Cuộc đời vẫn luôn tồn tại với hai mặt vui – buồn, vinh -  nhục, được – mất. Nhưng, vì con người không bao giờ biết chấp nhận và dung hòa, họ chỉ biết lao theo và cố đạt cho bằng được cái mà họ thích, họ muốn, cho nên lòng vị kỷ cũng từ đó mà theo ra và phát triển thành những thủ đoạn độc ác, con người trở thành những loài dã thú điên cuồng. Nghe hơi gay gắt và chua chát nhưng có sự thật nào che giấu được đâu. Đức Phật đã dạy tham dục và sự thỏa mãn lòng tham ái giống như người khát uống nước biển, như người bị ghẻ lở sợ lửa, như chó gặm xương khô, như liếm mật trên lưỡi dao, như ôm rơm đi vào lửa (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thế nhưng, có mấy ai nhận ra được điều này? Để thỏa mãn lòng tham dục của mình, họ tự nguyện trở thành nô lệ của dục vọng, bị sai sử bởi dục vọng, tội ác chập chồng mà họ cứ ngỡ đó là lẽ sống. Khi tòa án của lương tâm và tòa án của nhân loại kết án, bước chân lấm bùn không còn trở về được nữa, họ tự đào thải mình khỏi sự sống, tự “trải thảm” đưa mình tới con đường hủy diệt, không còn đủ tư cách sống trong xã hội loài người. Cái giá ấy có quá đắt không khi kẻ nô lệ của lòng tham được trả công bằng sự đào thải?

 Ta luôn sống trong cảm giác không được an lạc, luôn cảm giác thiếu thiếu một cái gì đó. Ta chưa bao giờ cảm nhận được rằng ta đã đầy đủ và không cần nữa. Chính vì thế, ta càng cố gắng được thỏa mãn thì lại càng bất mãn, ta càng mơ mộng được giàu sang thì lại càng vỡ mộng ở hố sâu của tội lỗi. Trên lộ trình tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình, ta đã gây nên không biết bao bất hạnh cho người khác. Vì chưa đạt được “tiêu chuẩn” hạnh phúc như mong muốn nên ta đã mặc nhiên đạp đổ đi tất cả những niềm hạnh phúc thật sự mà người khác không dễ gì có được. Đó thật sự là một lòng tham không đáy và ta là một con chó, là kẻ nô lệ của lòng tham. Để đạt được đối tượng, mục tiêu của mình tất nhiên phải trải qua giai đoạn tranh giành, thủ đoạn và chém giết, cuối cùng tạo điều kiện cho nghiệp lực lẫy lừng, tội ác lên ngôi. Thế nhưng, khi đạt được rồi lại phải ngày đêm canh giữ, lo sợ, bất an vì nếu bị mất đi, tinh thần có thể hoảng loạn, điên cuồng. Còn nếu cố gắng mà vẫn không đạt được thì dẫn đến trạng thái tâm lý thất vọng, oán giận, buồn trách, than thân, trách phận, hận đời thù người, nặng hơn có thể là sự trầm mình trong tuyệt vọng, buồn đau, tự mình chấm dứt sự sống của chính mình. Như vậy, dù có đạt được hay không đạt được thì cũng điên cuồng mà chết. Cuộc sống thật vô vị với những kẻ lòng tham không đáy, si mê không có giới hạn, cuối cùng sinh tử phải bì lao, khổ khổ trùng trùng.

 Chúng ta nên nghiêm túc nhìn nhận rằng chạy theo dục vọng là chạy theo nghiệp, là hành khách thân thiết trên chuyến tàu sinh tử triền miên, vô tận không có bến đỗ. Ta đừng than rằng “đời là bể khổ” khi chính ta là tác nhân tạo ra sự khổ. Theo dõi thông tin báo chí hàng ngày, thật đúng là một sự đa dục chồng chất khiến trái đất này như muốn nổ tung vì năng lượng của lòng tham, thù hận, si mê quá mạnh. Trái đất có thể nổ tung vì những dòng năng lượng này, đó cũng chính là ngày tận thế, là cái khổ lớn nhất mà loài người và muôn loài phải gánh chịu. Nếu dục là một lòng tham không đáy thì khổ cũng là một đại dương không bến. Nhân quả thật rất công bằng, anh “đa dục” thì phải “đa khổ” thôi, không thể “đa dục” mà “thiểu khổ” được. Cái khổ này bao hàm cho cả ta và người. Tội ác này lớn lắm! Gây khổ cho mình chưa đủ, lại còn gây khổ cho người nữa. Chẳng toà án nào dung tha được anh kể cả tòa án lương tâm của chính anh.
  Nếu tự ta hiểu và ý thức được câu “thiểu dục tri túc”, sống chánh niệm với ý thức, với tâm ham muốn của mình thì “đa dục vi khổ” làm gì có mặt cho thêm khổ? Ta nên sống như một đại trượng phu, ta tuyên chiến với đau khổ nhưng ta không chết đuối trong khổ đau. Ta không mắc kẹt giữa danh lợi và mất danh lợi, ta không phân vân suy nghĩ cho rối trí giữa vinh và nhục mà ta thong dong, vững chãi trước những được - mất, hơn – thua của cuộc đời. Đã biết tham dục tạo ra đau khổ, đã biết khổ đau là kết quả của tham dục thì ta còn ham muốn gì để làm nô lệ, làm chó săn của dục vọng?
 Người con Phật nên hiểu rằng dục tức là muốn. Theo chiều hướng tích cực, “dục” hoàn toàn không có khổ, nếu nó là một lời đại nguyện, là nguyện ước đem lại hạnh phúc cho con người và vạn loại chúng sanh. Còn nếu “dục” được sanh ra bởi tham, sân, si thì không cần phải thắc mắc gì cho câu “đa dục vi khổ”.
Nói tóm lại, chúng ta là hàng phàm phu, còn sống ở cõi ô trược này thì năm món dục ở thế gian (tài, sắc, danh, thực, thùy hay sắc, thanh, hương, vị, xúc) là cái mà chúng ta không thể nào không ham muốn. Vì vậy, đa dục là còn nhiều tham muốn về ngũ dục, mà trên đà tham lam chắc chắn sẽ sinh ra sân hận rồi dẫn đến kết quả si mê. Cuối cùng, khổ là một điều tất nhiên, là chân lý không thay đổi được.
Vậy hàng đệ tử Phật, những bậc đại nhân có cần những thứ ấy nữa không? Hãy biến lòng dục vọng thành những đại nguyện đem lại hạnh phúc, an lạc cho nhân loại và chúng sanh. Ngũ dục là gốc sanh tử, luân hồi, khổ đau nên ta đừng quên rằng “đa dục vi khổ”. Mỗi chúng ta cần “thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại” (Kinh Bát Đại Nhân Giác) mới xứng danh là những người con của dòng họ Thích ngàn đời!
Nguyên Giác Hạnh

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

KẺ NGU VÀ NGƯỜI TRÍ


Đi trong thế giới của người điên, mấy ai cho rằng ta là kẻ bình thường? Đi trong thế giới bình thường, mấy ai cho rằng ta là kẻ bị điên? Hai phạm trù của tỉnh và mê, trí và ngu, thế gian vẫn thường hay định nghĩa. Và trong những định nghĩa ấy, đã không ít lần ta giật mình đỏ mặt vì cũng có mình hiện thân của kẻ mê, kẻ ngu trong cái mác trí thức từ nhiều năm qua.
Ngu mông ngu cực
Tự vị ngã trí
Ngu nhi thắng trí
Thị vi cực ngu.
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ, Phẩm Ngu Ám thứ 15)
Nghĩa là:
Kẻ ngu muội cực cùng
Tự cho mình là trí
Ngu mà tưởng hơn trí
Đó chính là cực ngu.
Tinh-Do-Ngu-Kinh
Cũng lắm lúc không dám nhìn lại mình. Dường như ta đã vỗ ngực xưng tên rất nhiều nhưng cuối cùng vẫn chỉ là sự rỗng không, sự mê muội giữa đại dương của nguồn tri thức. Đã vạn kiếp ta mộng cùng thế gian lang thang từ muôn kiếp trong cuộc hành trình thiên lý mà vẫn chưa có sự trở về thật sự. Lâu nay, ta vẫn chấp cái thân giả dối, cái tâm hư vọng này là một ngã thể bất biến, ta áp đặt mọi tri kiến của mình lên người khác, ta có thể làm bất cứ điều gì (ngay cả làm cho người khác đau khổ) cũng chỉ để cung phụng cho cái túi da này. Cái bản ngã thật bự lớn lên mỗi ngày để rồi cuối cùng ta đã giết chết chính mình mà không biết. Thân tứ đại rồi cũng trở về với cát bụi, chết là hết thì tiếc gì ngày tháng ăn chơi, đắm mình trong thú vui dục lạc của thế gian. Ta coi thường lý Nhân – Quả, ta tha hồ tạo nghiệp, ta không màng đến sự khổ đau của tha nhân, cười trong nước mắt của thế gian, đứng trên nỗi đau tột cùng của người. Cái ngã và ngã sở quá lớn nên ta chưa từng biết xả bỏ là gì, chỉ biết hưởng thụ và rồi phiền não lăng xăng trong dòng suy nghĩ nên đến tận bây giờ vẫn còn trôi lăn mãi giữa dòng tử sinh.
Tham lam, sân hận, si mê, cống cao ngã mạn, nghi ngờ… đã làm cho ta và người mất đi sự truyền thông, ta ôm mình trong nỗi đau nghĩ rằng không ai hiểu mình, ta đã tách mình ra khỏi cộng đồng sống trong thế giới u uất của riêng mình. Mỗi một sát-na đi qua, ta đã hủy diệt chính ta mà cứ ngỡ đời chỉ còn mình ta là trên hết?! Cuộc sống là những chuỗi ngày của sự bon chen, đấu tranh, não phiền và hờn giận, ta cũng là phần tử góp nên sự “đấu đá” đó. Là ta đó! Mấy ai nhận ra? Mấy ai dám đối diện? Ngu si trong cái danh hiệu của người tri thức, lấy bằng cấp của thế gian để cho rằng ta là kẻ hơn người. Ôi! Cuộc đời! Một dòng sinh diệt triền miên, sống trong mộng mà cho là thực nên ta vẫn còn ngơ ngẩn trước cơn vô thường của cuộc đời.
13463
Đau đớn thay! Đúng lắm thay! Người giành khôn là kẻ dại, người chịu dại tức là khôn!
Vâng! Cái mà ta cho rằng hiểu biết hơn người, thông đạt tất cả khoa học, triết học, văn học thế gian cũng chỉ là cái hiểu biết ngọn ngành, không giải thoát được sinh tử. Chính vì bám vào đó, ta tự cho mình là trí, ai ngờ rằng đó chính là cực ngu!
Người trí luôn biết nhận chân giá trị của giáo pháp để làm mái chèo mà qua khỏi dòng sông diệt – sinh. Người hiểu được quy luật nhân – quả, nguyên lý duyên khởi thì không còn khổ đau trước sự biến chuyển cuộc đời, sống tỉnh thức trong mỗi phút giây đi qua, nhận ra sự chuyển động của dòng tâm thức, nhận ra ta và người, nhận ra mọi thứ vốn không phải là thường còn, tâm an nhiên tự tại, không động cũng chẳng trụ, tất cả chỉ thuần một tánh di nhiên.
Hơn nữa, người trí chỉ giáo hóa người khác khi mình đã có một vị trí thích đáng. Chia sẻ, độ người cũng phải đúng chỗ, tùy lúc. Giáo pháp Phật-đà là để giúp người có được sự chuyển hóa, chứ không phải để khoe kiến thức, so tài hơn thua. Tinh thần người học Phật không coi trọng chức vụ, địa vị. Tuy nhiên, trong một vài hoàn cảnh thì đó cũng là phương tiện để độ người. Nên nhớ đó là phương tiện chứ không phải sự lạm dụng để phân chia cao thấp, lớn nhỏ. Nếu ta còn mắc kẹt trong cái phân biệt thì con đường giải thoát xa muôn trùng, biết nẻo nào để trở về? Người trí luôn xây dựng cái nhìn sâu và nhìn rộng, chứa đựng tình yêu thương và sự hiểu biết từ gốc rễ, lựa chọn dứt khoát giữa thiện và bất thiện, vượt trên mọi sự xúc động thường tình của thế gian nên không cảm thấy đau khổ. Không lấy cái bất thiện làm thiện, không lấy cái bất tịnh mà làm tịnh. Tịnh và tĩnh trong động để lắng nghe sự chuyển động của dòng tâm thức, im lặng để lắng nghe tiếng nói của vùng nội tâm, ôm ấp và xoa dịu những nỗi đau như một vết thương cần chữa trị thì từ đó ta mới hiểu được nỗi đau của chúng sinh.
Ngày thường, ta tự hào trong cái biết của mình, ta giẫm đạp lên nỗi đau của người khác trong mớ kiến thức vụn vặt của chính mình. Ta viết, ta nói cho thật nhiều, lý luận cho hay, biện tài cho giỏi nhưng rốt cuộc chỉ là một kẻ diễn hài giữa màn kịch cuộc đời. Kẻ ngu càng học càng thấy mình khôn, người khôn càng học càng thấy mình không biết gì. Cũng vậy, kẻ ngu càng tu càng thấy mình chứng rồi đến một ngày “trở chứng” đem những cái gọi là hiểu biết Phật pháp ra lý luận trong mớ ngôn ngữ rẻ tiền của thế gian. Vâng! Ta cũng đã từng là kẻ như vậy đó. Lâu nay, cứ tưởng rằng mình hơn người nhưng hóa ra lại là kẻ cực ngu, đại ngu. Kẻ ngu luôn mượn lời Tổ, lời Phật mà lý lẽ nhưng lại chẳng hiểu gì cả. Người trí không nói nhưng sức mạnh của sự im lặng sấm sét đó có thể làm nên một bài pháp không lời làm rúng động cả ba cõi. Người si mê chỉ biết xây dựng ngôi chùa sắt thép, đất đá, còn người trí không cần chùa to Phật lớn, dù là chùa đất nhưng Phật vàng. Ngôi chùa ta đang cần là ngôi chùa tâm linh chứ không phải chùa du lịch. Đây không phải là sự phê phán mà là muốn nhấn mạnh tinh thần học Phật và kết quả của sự chuyển hóa, vì thật ra, một ngôi chùa đẹp cũng là một trong những phương tiện để hóa độ người nhưng cái ta muốn nói là nội dung tâm linh và sự chuyển hóa trong mỗi đạo tràng tu học tại từng ngôi già lam.
- Buddha1
Quay trở lại với vấn đề, kẻ ngu và người trí, kẻ mê và người tỉnh, đó vẫn là hai đối tượng luôn có mặt trong cuộc sống của ta. Và đó cũng chính là sự hiện thân của ta trong vạn kiếp luân hồi. Ngu và trí, ác và thiện chỉ trong một niệm nếu ta biết cách quán chiếu, tịnh và tĩnh trong mọi hoàn cảnh môi trường tác động. Tận cùng trong cái ngu vẫn có một cái trí tồn tại khi ta biết dừng lại với hơi thở của mình. Có những cái ngu “truyền kiếp”, có những cái ngu “nhất thời”, nhưng dù là cái ngu nào đi chăng nữa, một khi đã biết nhận ra bản lai diện mục của cái ngu đó, dám đối diện sự thật thì đó chính là người có trí. Bởi người trí luôn muốn biết những điều đáng biết, không nghĩ sai lệch và cũng không muốn biết những điều không nên biết.
Nói tóm lại, người trí và kẻ ngu không phải được xác định qua bằng cấp của thế gian mặc dù điều đó không phải là sai hoàn toàn, bởi nó chỉ đúng khi đứng ở một phương diện nào đó trong cuộc sống. Theo tinh thần Phật giáo, trí tuệ được tượng trưng qua hình ảnh của ánh sáng tức là sự tỉnh thức. Ánh sáng ấy soi rõ trong tâm mình và đem năng lượng bình an, nội lực vững chãi đến cho người. Còn kẻ ngu thì không cần đến ánh sáng vì họ không dám đối diện trong cuộc sống, họ lấy sự bảo thủ để bảo vệ cho mình nên sẽ không đón nhận được những làn gió mát của sự an lạc và dần dần tự đào thải mình trên con đường tu học. Kẻ ngu và người trí là vậy!
Kẻ ngu muội cực cùng
Tự cho mình là trí
Ngu mà tưởng hơn trí
Đó chính là cực ngu.
Câu “thần chú” cho những kẻ đang say trong mộng. Ngu mà tưởng hơn trí!
Nguyên Giác Hạnh

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Tình người


Tình người – chẳng biết viết sao cho đủ, chẳng biết nói sao cho vừa? Thơ ca, văn học, báo chí hay các mảng nghệ thuật khác dù nói về khía cạnh gì đi chăng nữa cũng không ngoài mục đích ca ngợi tình thương yêu nhân loại. Biết rằng thế, nhưng sao lòng vẫn trăn trở, nghĩ suy… Lòng thấy nặng hơn giữa buổi chiều về…Trăn trở, không phải là sự than vãn mà chỉ đơn giản chỉ là sự tìm lại những giá trị đạo đức của nhân loại mà thôi.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Ôi!

Bầu ơi! Thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Từ những ngày còn là học sinh tiểu học, ta đã thuộc lòng câu ca dao này rồi. Nhưng…  tất cả những sự hiểu ấy cũng chỉ diễn bày bằng ngôn ngữ hoa mỹ của thế gian cho bóng bẩy cái tình người của lý thuyết chứ chưa phải bằng sự trải nghiệm của cuộc đời. Nhìn lại thực tế, có đôi lúc cũng đau lắm thay!

Mới nghe qua tưởng chừng như bi quan, nhưng thực tế không phải vậy! Mở rộng lòng mình, lắng nghe sâu hơn những khúc nhạc của tình người và mắt thương nhìn cuộc đời để ta biết rằng vì sao “Người trong một nước phải thương nhau cùng”? Nên nhớ rằng, đồng bào ta không phải chỉ gói gọn trong nước Việt Nam mà còn ở nước ngoài nữa. Dù cho họ có mang quốc tịch gì đi chăng nữa thì dòng máu đang chảy trong người vẫn là dòng máu của con rồng cháu tiên. Không phải là cùng một nước mới thương nhau, khác nước là “đá nhau”, phân biệt. Nếu hiểu như vậy, chúng ta đã giết chết giá trị của tình người, tình dân tộc, tình đồng bào, tình đồng loại. “Một nước” chỉ là hình ảnh tượng trưng, còn nói rộng ra là người cùng chung một thế giới của “nước mắt cùng mặn, dòng máu cùng đỏ”. Chúng ta cùng khổ như nhau cả thôi. Thế thì tại sao nhiễu điều lại không phủ lấy giá gương? Tại sao không yêu thương, đùm bọc lẫn nhau? Ta được gì trong chiến tranh đẫm máu? Ta được gì trong tiếng khóc của trẻ thơ? Khi tiếng súng giữa các khu vực còn nổ, khi máu vẫn còn rơi trong tiếng thét lạc giữa vùng bom rơi đạn nổ là ta biết tình người vẫn còn là cái gì đó nói cho vui miệng, cho thỏa mãn cái danh đạo đức để người ta khen ngợi cái bản ngã hão huyền của cá nhân đó mà thôi.

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Đó là sự đùm bọc, che chở bằng cả sự chân thành mà động từ “phủ lấy” đã nói rất rõ. Dân tộc này “phủ lấy” dân tộc khác, quốc gia giàu mạnh “phủ lấy” quốc gia chậm phát triển không phải là sự xâm chiếm mà phải là sự sớt chia, bao bọc làm ấm lại tình người. “Nhiễu điều” và “giá gương” là hai vật quý trên bàn thờ tổ tiên, nhờ sự “phủ lấy” của “nhiễu điều” mà “giá gương” và cả tấm gương được sáng trong, không bụi mờ. Cũng vậy, nhờ sự “phủ lấy” của đất nước phát triển mà những nước chậm phát triển đã khá hơn trước, lá rách cũng không còn rách nữa mà lành lặn hơn, đẹp hơn bởi cái đùm bọc của lá lành!
Tôi là bầu, anh là bí nhưng chúng ta cùng chung một giàn. Đất nước Việt Nam tôi là bầu, đất nước các bạn là bí nhưng chúng ta cùng chung một giàn là mẹ trái đất. Tôi là dân tộc Kinh, anh là dân tộc vùng núi. Nhưng thì sao? Ta vẫn chung một giàn của đất mẹ Việt Nam. “Bầu và bí” là hai hình ảnh tượng trưng để chúng ta có tình yêu thương không sự phân biệt. Khi thọ lấy thân là ta biết đã thọ lấy khổ, vậy cớ gì còn nhìn bằng con mắt nhị nguyên của sự đối đãi, phân chia mà không thương lấy nhau?

Kho tàng ca dao, tục ngữ của dân tộc ta vô cùng phong phú nhưng có đôi khi ta chỉ viết bằng ngôn ngữ cọc cạch của thế gian. Trước đây, khi viết về câu ca dao này, ta chỉ đề cao tinh thần yêu nước nhưng ta lại không biết yêu luôn cả nước bạn. Tình người không thể hạn hẹp trong một xóm làng, một thành phố, một đất nước mà phải trải rộng ra cả nước khác. Vì chúng ta cùng một giàn mẹ trái đất như nhau cả thôi. Nếu ta chỉ biết thương cái nhánh gần mình mà không biết thương những nhánh khác thì cũng chẳng khác nào làm cho giàn trái đất này lung lay. Tình thương mà Đức Phật dạy là nó phải vượt qua sự phân biệt, là sự đổ vỡ của thế giới hữu ngã không chứa đựng cái tôi hay cái của tôi. Lật lại từng trang báo thời sự trong nước và trên thế giới, ta nhận xét gì về tình người của thời đại @, thời đại toàn cầu hóa, thời đại mà con người ta đang ca ngợi một nếp sống văn minh? Vùng Phi châu, đói vẫn đói, chiến tranh vẫn chiến tranh. Vùng Âu châu, súng vẫn nổ ở một vài quốc gia. Vùng Á châu, bạo động vẫn còn âm ỉ, đâu đó vẫn còn nghe tiếng súng. Và đất nước ta, không hiểu sao lại ngày càng mọc lên những vụ án giết người man rợ, ghê không khác gì phim!!! Bạo động học đường bắt đầu nhen nhóm rồi bùng lên. Thật dễ sợ! Tất cả là do đâu? Nền tảng đạo đức con người chưa được xây dựng vững chắc. Đồng ý rằng không thể đạt được cái hoàn hảo nhưng cũng không nên để cái tiêu cực phát triển nhanh như vậy. Cuộc sống này vốn dĩ chẳng có tội. Lỗi là do chúng ta chưa từng biết chấp nhận cái khiếm khuyết của riêng mình, ta đã che đậy nó quá kỹ lưỡng, không cho ai biết và cũng chẳng cho ai đụng tới. Ta chưa từng biết yêu thương người xung quanh mình nên thủ đoạn đã được che đậy dưới lớp chữ của tình thương, chính vì thế cũng đừng ngạc nhiên khi ta lúng túng, ngượng nghịu trong cách giúp đỡ một người khó khăn. Nếu con người của thời đại @ chưa biết trân trọng những sự trở ngại như một cơ hội để thử sức mình, chưa dám tin vào mình, chưa biết cách yêu thương và tha thứ (đó là chưa nói đến phải yêu thuơng và tha thứ những kẻ mà ta cho là “oán tắng hội khổ”) thì chưa thể gọi là văn minh được. Còn nhiều vấn đề mà tôi muốn chia sẻ cùng bạn như một chút gì đó để chén trà trên tay thôi không nặng lòng ưu tư. Nhưng thôi! Đành im lặng như một dấu ba chấm vì ngôn ngữ đã không thể họa bày hết được.
Trở lại với vấn đề, những câu ca dao trên đều nói về tình yêu thương con người. Cần nhấn mạnh thêm rằng, chúng ta dù là huynh đệ hay không phải là huynh đệ thì cũng đồng một họ Thích. Hãy thương yêu nhau bằng tình đạo vị, không phân biệt hệ phái, vùng miền, có như vậy thì “giàn” Phật giáo Việt Nam mới phát triển được.
Nói tóm lại, viết về giá trị của tình người, ngôn ngữ chỉ là phương tiện để nói lên phần nào đó những điều muốn sẻ chia. Không nên nói bằng ngôn ngữ của thế gian mà hãy nên nói bằng tất cả tình cảm của tình nhân loại. Dù đây là chủ đề không còn mới mẻ gì nhưng ta cũng nên hiểu tất cả những câu ca dao ấy theo nghĩa rộng hơn, vượt qua biên giới của sự hạn hẹp bởi tình thương cần phải được trải rộng. Khi chữ “Tình” xuất hiện cũng có nghĩa là sự truyền thông đã có mặt. Điều này chứng minh là ta đã đặt nền tảng cho “hiểu và thương”. Tình người là sự truyền thông của nhân loại, là sự truyền thông giữa các dân tộc và quốc gia. Tình người cũng là tình huynh đệ, tình Tăng thân được xây dựng trên nền tảng của Lục hòa và đó chính là giá trị miên viễn cần phải được bảo vệ, chớ để cho tình người xói mòn trong mỗi thời đại. Và khi đó, máu đã ngừng rơi, nước mắt đã ngừng chảy và súng đạn cũng không còn diễn ra nữa.
Vâng!
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người cùng trái đất phải thương nhau cùng.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
NGUYÊN GIÁC HẠNH